Bệnh đái tháo đường, còn gọi là Bệnh tiểu đường, là một bệnh
do rối loạn chuyển hóa cacbohydrat khi hoóc môn insulin của tụy bị thiếu hay giảm
tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai
đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm
khát nước.
Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều
bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt,
suy thận, liệt dương, hoại thư, v.v.
Dịch tễ học
Ở Anh khoảng 1,6 triệu người bị ĐTĐ[1]. Tại Hoa Kỳ, số người
bị ĐTĐ tăng từ 5,3% năm 1997 lên 6,5% năm 2003 và tiếp tục tăng rất nhanh. Người
tuổi trên 65 bị ĐTĐ gấp hai lần người tuổi 45–54.
Tại Việt Nam, trong 4 thành phố lớn Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, tỷ lệ bệnh tiểu đường là 4%, riêng quận Hoàn Kiếm (Hà Nội)
lên tới 7%. Phần lớn người bệnh phát hiện và điều trị muộn, hệ thống dự phòng,
phát hiện bệnh sớm nhưng chưa hoàn thiện.
Vì vậy, mỗi năm có trên 70% bệnh nhân không được phát hiện
và điều trị. Tỷ lệ mang bệnh tiểu đường ở lứa tuổi 30-64 là 2,7%, vùng đồng bằng,
ven biển 2,2%, miền núi 2,1%. Nếu không được phòng chống và cứu chữa kịp thời,
bệnh dễ biến chứng, 44% người bệnh đái tháo đường bị biến chứng thần kinh, 71%
biến chứng về thận, 8% bị biến chứng mắt.
Hiện trên thế giới ước lượng có hơn 190 triệu người mắc bệnh
tiểu đường và số này tiếp tục tăng lên. Ước tính đến năm 2010, trên thế giới có
221 triệu người mắc bệnh tiểu đường. Năm 2025 sẽ lên tới 330 triệu người (gần
6% dân số toàn cầu). Tỷ lệ bệnh tăng lên ở các nước phát triển là 42%, nhưng ở
các nước đang phát triển (như Việt Nam) sẽ là 170%.
Phân loại
Bệnh tiểu đường có hai thể bệnh chính: Bệnh tiểu đường loại
1 do tụy tạng không tiết insulin, và loại 2 do tiết giảm insulin và đề kháng
insulin.
Loại 1 (Typ 1)
Khoảng 5-10% tổng số bệnh nhân Bệnh tiểu đường thuộc loại 1,
phần lớn xảy ra ở trẻ em và người trẻ tuổi (<30T). Các triệu chứng thường khởi
phát đột ngột và tiến triển nhanh nếu không điều trị. Giai đoạn toàn phát có
tình trạng thiếu insulin tuyệt đối gây tăng đường huyết và nhiễm Ceton.
Những triệu chứng điển hình của Bệnh tiểu đường loại 1 là tiểu
nhiều, uống nhiều, đôi khi ăn nhiều, mờ mắt, dị cảm và sụt cân, trẻ em chậm
phát triển và dễ bị nhiễm trùng.
Loại 2 (Typ 2)
Bệnh tiểu đường loại 2 chiếm khoảng 90-95% trong tổng số bệnh
nhân bệnh tiểu đường, thường gặp ở lứa tuổi trên 40, nhưng gần đây xuất hiện
ngày càng nhiều ở lứa tuổi 30, thậm chí cả lứa tuổi thanh thiếu niên.
Bệnh nhân thường ít có triệu chứng và thường chỉ được phát
hiện bởi các triệu chứng của biến chứng, hoặc chỉ được phát hiện tình cờ khi đi
xét nghiệm máu trước khi mổ hoặc khi có biến chứng như nhồi máu cơ tim, tai biến
mạch máu não; khi bị nhiễm trùng da kéo dài; bệnh nhân nữ hay bị ngứa vùng do
nhiễm nấm âm hộ; bệnh nhân nam bị liệt dương.
Bệnh tiểu đường do thai nghén
Tỷ lệ bệnh tiểu đường trong thai kỳ chiếm 3-5% số thai
nghén; phát hiện lần đầu tiên trong thai kỳ.
Chẩn đoán
Bệnh tiểu đường là một bệnh không thuần nhất, có nhiều thể
lâm sàng nên triệu chứng. Bệnh tiểu đường loại 2 có các triệu chứng diễn ra êm
dịu hơn loại 1.
Triệu chứng
Các triệu chứng thường thấy là tiểu nhiều, ăn nhiều, uống
nhiều, sụt cân nhanh là các triệu chứng thấy ở cả hai loại.
Lượng nước tiểu thường từ 3-4 lít hoặc hơn trong 24 giờ, nước
trong, khi khô thường để lại vết bẩn hoặc mãng trắng.
Tiểu dầm ban đêm do đa niệu có thể là dấu hiệu khởi phát của
đái tháo đường ở trẻ nhỏ.
Với bệnh nhân đái tháo đường loại 2 thường không có bất kỳ
triệu chứng nào ở giai đoạn đầu và vì vậy bệnh thường chẩn đoán muộn khoảng
7-10 năm (chỉ có cách kiểm tra đường máu cho phép chẩn đoán được ở giai đoạn
này).
Xét nghiệm
Chẩn đoán ĐTĐ bằng định lượng đường máu huyết tương:
ĐTĐ: đường máu lúc đói ≥126mg/dl (≥7 mmol/l) thử ít nhất 2 lần
liên tiếp.
Đường máu sau ăn hoặc bất kỳ ≥200mg/dl (≥11,1mmo;/l).
Người có mức đường máu lúc đói từ 5,6-6,9 mmol/l được gọi là
những người có ‘rối loạn dung nạp đường khi đói’.
Những người này tuy chưa được xếp vào nhóm bệnh nhân ĐTĐ,
nhưng cũng không được coi là ‘bình thường’ vì theo thời gian, rất nhiều người
người ‘rối loạn dung nạp đường khi đói’ sẽ tiến triển thành ĐTĐ thực sự nếu
không có lối sống tốt.
Mặt khác, người ta cũng ghi nhận rằng những người có ‘rối loạn
dung nạp đường khi đói’ bị gia tăng khả năng mắc các bệnh về tim mạch, đột quị
hơn những người có mức đường máu <5,5mmol/l.
Đôi khi các bác sỹ muốn chẩn đoán sớm bệnh ĐTĐ hơn nữa bằng
cách cho uống đường glucose làm bộc lộ những trường hợp ĐTĐ nhẹ mà thử máu theo
cách thông thường không đủ tin cậy để chẩn đoán. Cách đó gọi là ‘test dung nạp
glucose bằng đường uống’.
Test này được thực hiện như sau:
- Điều kiện: ăn 3 ngày liền đủ lượng carbonhydrat
(>200g/ngày), không dùng thuốc làm tăng đường máu, đường máu lúc đói bình
thường, không bị stress.
- Thực hiện: nhịn đói 12 giờ, uống 75 gam đường glucose
trong 250ml nước (không nóng - không lạnh). Định lượng đường máu sau 2 giờ.
- Đọc kết quả: ‘Test dung nạp glucose đường uống’:
Nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥11,1mmol/l: chẩn
đoán ĐTĐ; nếu đường máu 2 giờ sau uống đường glucose ≥7,8 mmol/l nhưng <
11,1 mmol/l: những người này được xếp loại giảm dung nạp đường glucose. Người mắc
giảm dung nạp đường glucose không những có nguy cơ cao tiến triển thành ĐTĐ sau
này, mà còn tăng nguy cơ mắc các bệnh tim-mạch như tăng huyết áp, nhồi máu cơ
tim, tai biến mạch máu não.
- Định lượng đường niệu: chỉ có giá trị rất hãn hữu trong việc
theo dõi đối với bản thân bệnh nhân ngoại trú. Không dùng để chẩn đoán bệnh.
- Các xét nghiệm bổ sung: sau khi được chẩn đoán xác định và
làm những xét nghiệm theo dõi thường kỳ (1-2lần/năm) để thăm dò các biến chứng
mạn tính và để theo dõi điều trị:
- Khám lâm sàng: lưu ý kiểm tra cân nặng, huyết áp, bắt mạch
ngoại biên và so sánh nhiệt độ da, khám bàn chân, khám thần kinh bao gồm thăm
dò cảm giác sâu bằng âm thoa. Khám mắt: phát hiện và đánh giá tiến triển bệnh
lý võng mạc.
- Xét nghiệm: đặc biệt lưu ý creatinin, mỡ máu, microalbumin
niệu (bình thường < 30 mg/ngày) hoặc định lượng protein niệu. Đo điện tim nhằm
phát hiện sớm các biểu hiện thiếu máu cơ tim. Soi đáy mắt..
- Định lượng HbA1 hoặc HbA1c: đánh giá hồi cứu tình trạng đường
máu 2-3 tháng gần đây. Đường máu cân bằng tốt nếu HbA1c < 6,5%.
Trong một số tình huống (không phải là xét nghiệm thường
qui):
Fructosamin: cho biết đường máu trung bình 2 tuần gần đây,
có nhiều lợi ích trong trường hợp người mắc ĐTĐ đang mang thai. Nếu đường máu
cân bằng tốt, kết quả < 285 mmol/l.
Peptid C (một phần của pro-insulin): cho phép đánh giá chức
năng tế bào bêta tụy.
Điều trị
Lối sống và thái độ ăn uống
Chế độ ăn tốt cho bất kỳ người ĐTĐ cũng cần thoả mãn các yếu
tố cơ bản sau:
- Đủ chất Đạm - Béo - Bột - Đường - Vitamin - Muối khoáng -
Nước với khối lượng hợp lý.
- Không làm tăng đường máu nhiều sau ăn.
- Không làm hạ đường máu lúc xa bữa ăn.
- Duy trì được hoạt động thể lực bình thường hàng ngày.
- Duy trì được cân nặng ở mức cân nặng lý tưởng hoặc giảm
cân đến mức hợp lý.
- Không làm tăng các yếu tố nguy cơ như rối loạn mỡ máu,
tăng huyết áp, suy thận ...
- Phù hợp tập quán ăn uống của địa dư, dân tộc của bản thân
và gia đình.
- Đơn giản và không quá đắt tiền.
- Không nên thay đổi quá nhanh và nhiều cơ cấu cũng như là
khối lượng của các bữa ăn.
Thuốc uống
Insulin (dùng cho dạng typ1)
Căn cứ vào tác dụng, giới chuyên môn chia ra 03 nhóm:
- Insulin tác dụng nhanh: gồm Insulin hydrochlorid, nhũ dịch
Insulin-kẽm
- Insukin tác dụng trung bình: Isophan Insulin, Lente
Insulin
- Insulin tác dụng chậm: Insulin Protamin kẽm, Insulin kẽm
tác dụng chậm
Insulin được chỉ định dùng cho bệnh nhân đái tháo đường thuộc
Typ1, nó chỉ dùng cho bệnh nhân đái tháo đường typ2 khi đã thay đổi chế độ ăn,
luyện tập và dùng các thuốc điều trị đái tháo đường tổng hợp mà không hiệu quả
- Phản ứng phụ của Insulin: Dị ứng (sau khi tiêm lần đầu hoặc
nhiều lần tiêm), hạ Glucose máu (thường gặp khi tiêm quá liều), Phản ứng tại chỗ
tiêm (ngứa, đau, cứng vùng tiêm)
Thuốc dùng cho dạng typ2
Các dẫn xuất của Sulfonyl ure, chia làm 02 nhóm:
- Nhóm 1: có tác dụng yếu, gồm - Tolbutamid, Acetohexamid,
Tolazamid, Clopropamid
- Nhóm 2: có tác dụng mạnh hơn, gồm - Glibenclamid,
Glipizid, Gliclazid
Các nhóm trên có tác dụng hạ đường huyết do ngăn cản tế bào
tuyến tụy tạo ra Glucagon và kích thích tế bào Beta ở tuy tiết ra Insulin
- Phản ứng phụ khu dùng: hạ Glucose máu,dị ứng, rối loạn
tiêu hóa, tan máu, mất bạch cầu hạt.